Nếu không có những bộ óc siêu phàm của các nhà vật lý lỗi lạc thì có lẽ con người còn chìm trong một thế giới mông muội lắm.
>>
Những nhà phát minh "tử vì nghiệp"
Galileo Galilei (1564-1642)
Nơi sinh: Pisa, Italy
Galileo cũng được nhân loại coi là “Cha đẻ của khoa học hiện đại”. Galileo Galilei, thường được gọi là Galileo, là một nhà thiên văn học, nhà vật lý học và là nhà toán học. Ông được xếp vào hàng ngũ những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với các nhà khoa học như Archimedes, Newton, và Einstein… Ông là người có vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học.
Những thành tựu to lớn của ông phải kể đến là việc tạo ra kính thiên văn và cải tiến nó, giúp con người có thể quan sát các hiện tượng thiên văn như xác định các tuần của Sao Kim, phát hiện bốn vệ tinh lớn nhất của Sao Mộc (được đặt tên là các vệ tinh Galileo)…
Những kết quả thu được giúp khẳng định lý thuyết của Copernicus rằng “Mặt trời là trung tâm của hệ mặt trời”. Trong vật lý, Galileo đã phát hiện ra các nguyên tắc chuyển động quả lắc. Một thông tin thú vị nữa về Galileo, do một học trò của Galileo - Vincenzo Viviani, kể rằng Galileo đã thả những quả bóng bằng cùng vật liệu, nhưng có trọng lượng khác nhau, từ Tháp nghiêng Pisa để chứng minh rằng thời gian rơi của chúng không phụ thuộc vào trọng lượng.
Galileo cũng là người phát minh ra nhiệt kế và một thiết bị được gọi là cân bằng thủy tĩnh để xác định khối lượng riêng.
Blaise Pascal (1623-1662)
Nơi sinh: Clermont-Ferrand, Pháp.
Pascal là một nhà toán học, triết học và vật lý học. Ông nghiên cứu thủy động lực học và đã đưa ra thuyết gọi là “Định luật Pascal”. Định luật Pascal được phát biểu như sau: "Áp suất chất lỏng do ngoại lực tác dụng lên mặt thoáng được truyền nguyên vẹn tới mọi điểm trong lòng chất lỏng".
Ông còn nổi tiếng với một niềm tin rằng khoa học và tôn giáo có xung khắc; thực tế, ông tin rằng việc chứng minh các chân lý khoa học cần có sự giúp đỡ của Chúa trời, chứ không thể chỉ dựa vào nỗ lực của con người.
Trong toán học, ông đã có nhiều đóng góp to lớn, đặc biệt là việc tìm ra “Tam giác Pascal” để tính các hệ số trong khai triển nhị thức Newton. Pascal con dành tâm sức vào triết học và thần học. Ông đã viết hai tác phẩm nổi tiếng trong thời kỳ đó: “The Lettres provinciales” và”The Pensées”. Ngoài ra, ông còn quản lý việc xuất bản ít nhất là 6 tác phẩm văn học cổ điển Pháp nổi tiếng.
Tên của Pascal đã được đặt cho rất nhiều thứ, như: đơn vị đo áp suất là lực tác động lên mỗi đơn vị diện tích (tương đương với đơn vị N/ m2 (newton/mét vuông): 1 Pa = N/m2). Pascal còn là tên một ngôn ngữ lập trình với các phiên bản như TurboPascal và FreePascal.
Tất cả những điều này được ông thực hiện trong 39 năm ngắn ngủi của cuộc đời. Hai tháng sau sinh nhật lần thứ 39, ông đã qua đời.
Sir Isaac Newton (1643-1727)
Nơi sinh: Lincolnshire, Anh.
Người ta "nhớ" đến Newton nhiều nhất qua chi tiết "quả táo và định luật vạn vật hấp dẫn" đấy! Có người cho rằng quả táo rơi vào đầu Newton đúng lúc ông tìm ra "chân lý" sau khi đã ngồi "vắt óc" dưới gốc táo, nhưng cũng có ý kiến cho rằng lúc đó ông chỉ đơn giản đang tản bộ trong vườn và nhìn táo rụng đầy sân vườn từ đó nảy ra định luật vạn vật hấp dẫn.
Newton là một trong những thiên tài khoa học vĩ đại nhất của mọi thời đại. Ông là nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học tự nhiên và nhà toán học kiệt xuất của nước Anh. Ông là người đã xây dựng những định luật cơ bản của cơ khí, mô tả về vạn vật hấp dẫn và áp dụng chúng để giải thích sự hoạt động của hệ mặt trời. Newton còn nổi tiếng với “Ba định luật Newton” về chuyển động.
Những lý thuyết đó của ông làm “hài lòng” tất cả các nhà khoa học trong hơn hai thế kỷ qua. Tuy những định luật này không đủ để giải thích nhiều khám phá trong vật lý ở thế kỉ thứ XX, nhưng chúng vẫn đưa ra lời giải thích hợp lý cho các hiện tượng vật lý mà con người hàng ngày bắt gặp. Những định luật đó được gọi là vật lý cổ điển, vật lý Newton hay vật lý nói chung.
Ngoài ra, Newton cũng có nhiều đóng góp quan trọng và ứng dụng lâu dài cho vật lý quang học (như hiện tượng tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng kính trở thành nhiều màu…) và toán học (như nhị thức Newton tổng quát, phép tính vi phân và tích phân…)
Benjamin Franklin (1706-1790)
Nơi sinh: Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ
Benjamin Franklin bắt đầu quan tấm đến viện nghiên cứu điển tử vào khoảng năm 1746. Ông đã tìm hiểu và phát hiện hiện tượng: khi có điện tích dương và điện tích âm chuyển qua hai vật thì giữa chúng sẽ tồn tại một dòng điện. Franklin đã nghi ngờ sét là hiện tượng tích điện, và đã chứng minh diều này qua các thử nghiệm diều vào năm 1752.
Chính những thử nghiệm này đã giúp Franklin phát minh ra cột thu lôi, bảo về các tòa nhà cao tầng khỏi sự tấn công của sét. Với những thành tựu đạt được, ông đã được bầu làm thành viên Hội khoa học Hoàng gia, một tổ chức khoa học ở Anh, vào năm 1756. Ông cũng thu thập thông tin về thời tiết, nghiên cứu về biển và nhiều lĩnh vực khác.
Ông cũng là người đầu tiên đã vẽ biểu đồ của Gulf Stream ở Đại Tây Dương và nghiên cứu sự ảnh hưởng của Gulf Stream đến du lịch biển. Ông cũng tạo ra lò sưởi hoặc động giống như một lò không khí nóng. Khi thị lực của ông trở nên kém dần, ông đã phát minh ra kính hai tròng cho chính mình.
Charles Augustin de Coulomb (1736-1806)
Nơi sinh: Angoulême, Pháp.
Coulomb là kĩ sư và là nhà vật lý người Pháp, nổi tiếng trong lĩnh vực điện trường và từ trường. Sau khi giải quyết các vấn đề liên quan đến ma sát và lực xoắn, ông đã bắt đầu yêu thích nghiên cứu bộ môn khoa học này. Các đơn vị điện tích đã được đặt theo tên của ông – Coulomb.
Vào năm 1777, Coulomb đã khám phá ra sự cân bằng lực xoắn, được ông sử dụng để đo lực hút và đấy giữa các dòng điện và các cực của nam châm. Từ những kết quả thu được, ông đã đưa ra “Định luật Counlomb (Định luật Cu-lông)” về lực tĩnh điện. Định luật phát biển rằng: “Lực tương tác giữa hai điện tích điểm có phương nằm trên một đường thẳng nôi hai tích điểm, có chiều là chiều của lực hút nếu hai điện tích điểm cùng dấu và đẩy nếu hai điện tích điểm trái dấu, có độ lớn tỉ lệ thuận với tích các điện tích và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng”.
Lực tĩnh điện, do đó, được đặt tên là lực Coulomb. Cống hiến này của Coulomb đã đặt nền tảng quan trọng cho việc phát triển nghiên cứu về điện và từ tính.
James Watt (1736-1819)
Nơi sinh: Greenock, Scotland
Nhà phát minh người Áo James Watt còn là một nhà kĩ sư cơ khí tài ba. Ông thường được nhắc tới cùng với phát minh máy hơi nước, cho dù ông không phải là người đầu tiên nghiên cứu thiết bị này. Ông cùng với William Murdoch và đồng sự Matthew Boulton đã cùng nghiên cứu hoàn thiện chiếc máy hơi nước. Những cải tiến của Watt và các đồng nghiệp của mình là công cụ quan trọng thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh và các nước khác. Đơn vị đo công suất Watt (W) trong hệ đo lường quốc tế được đặt theo tên của James Watt (1W= 1 J/s)
Count Alessandro Volta (1745-1827)
Nơi sinh: Como, Italy.
Bá tước Alessandro Volta là nhà vật lý người Ý, là người đã phát triển ra “pin Volta” nổi tiếng với hai điện cực, một làm bằng kẽm, một làm bằng đồng. Pin Volta là thứ có thể tạo ra dòng điện liên tục đầu tiên trên thế giới. Volta được sinh ra tại Como ,yêu thích vật lý từ bé và ông đã trở thành giảng viên tại các trường công ở đỏ. Năm 1774, ông trở thành giáo sư vật lý trường Hoàng gia tại Como.
Một phát minh tiên phong khác của Volta đó là khẩu súng điều khiển từ xa, là nền tảng cho ý tưởng về điện tín, một hình thức liên lạc quan trọng đối với con người.
Để ghi nhận công lao to lớn của ông, người ta đã đặt tên ông cho đợn vị hiệu điện thế, điện áp - Volt.
André Marie Ampère (1775-1836)
Nơi sinh: Marseille, Pháp.
Ampère, André Marie là nhà toán học và vật lý người Pháp. Ông là người đã phát hiện ra hiện tượng vô cùng quan trọng trong lĩnh vực điện. Đó là: Hai dòng điện đặt song song, cùng hướng thì sẽ hút nhau, còn hai dòng điện song song ngược hướng sẽ đẩy nhau.
Thí nghiệm để dẫn tới kết luận trên được thực hiện từ năm 1820 đến năm 1825. Từ đó, Ampere đã đưa ra “Định luật Ampe”, xác định lực từ trường cảm ứng lên đoạn dây dẫn khi có dòng điện chạy qua, cho thấy mọi dòng điện đều sinh ra quanh nó một từ trường. Định luật này chính là cơ sở để chế tạo động cơ điện, ứng dụng vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển của nhân loại.
Amadeo Avogadro (1776-1856)
Nơi sinh: Turin, Italy.
Avogadro là nhà hóa học, toán học và vật lý học người Ý. Những phát minh của ông là những đóng góp vô cùng to lớn đối với sự phát triển của Khoa học vật lý. Ông đã phát triển những giả thuyết quan trọng, đó “Định luật Avogadro”. Ông khẳng định: “ở cùng một điều kiện nhiệt độ và áp suất, những thể tích bằng nhau của mọi chất khí đều chứa số phân tử khí bằng nhau. Từ định luật này đã có những hệ quả quan trọng trong lĩnh vực hóa học và vật lý như thể tích mol phân tử, tỷ khối của các chất khí và tỉ lệ thể tích các chất khí trong phản ứng hóa học.
Johann Carl Friedrich Gauss (1777-1855)
Nơi sinh: Braunschweig, Đức.
Gauss là nhà toán học người Đức, có nhiều đóng góp trong lĩnh vực hình học, vật lý, thiên văn học, quang học và rất nhiều thứ khác. Ông xứng đáng được gọi là “thần đồng”, khi đã có những khám phá khoa học quan trọng ở tuổi thiếu niên.
Gauss xây dựng định luật tĩnh điện và điện động lực học quan trọng. Ông đã đưa ra “Định luật Gauss” về thông lượng (đại lượng chỉ lượng di chuyển qua bề mặt vuông góc với hướng di chuyển trong một đơn vị thời gian, ví dụ như thông lượng dòng nước, thông lượng bức xạ…).
Phải nói rằng, Gauss có một tình yêu lớn đối với toán học và là một thiên tài xuất chúng. Ngay từ nhỏ, ông đã là học sinh xuất sắc của môn toán. Khi học đại học, ông đã đưa ra cách dựng đa giác đều 17 cạnh bằng thước kẻ và compa. Về sau, nhờ nghệ thuật tính toán của Gauss mà các nhà thiên văn học đã phát hiện ra hành tinh lùn mới có tên là Cera… Vì thế nên không có gì là lạ khi ông được tôn là “Vua toán học”.
Augustin-Jean Fresnel (1788-1827)
Nơi sinh: Ville d'Avray, Pháp
Fresnel là một nhà vấy lý và kĩ sư nghiên cứu quang học. Những thí nghiệm của ông đã khẳng định vững chắc về lý thuyết sóng ánh sáng. Ông thực hiện nhiều cuộc thí nghiệm về sự phân cực và nhiễm xạ của ánh sáng. Là một kĩ sư, ông còn tạo ra một loại thấu kính, ngày nay gọi là ống kính Fresnel, để thay thế gương trong các ngọn đèn hải đăng. Thấu kính có bề mặt được ghép lại từ các phần của mặt cầu, làm giảm độ dày của thấu kính, do đó giảm trọng lượng và độ tiêu hao ánh sáng do sự hấp thụ của thủy tinh làm kính.
Georg Ohm (1789-1854)
Nơi sinh: Munich, Đức.
Georg Simon Ohm là nhà vật lý người Đức, đã phát hiện ra mối liên hệ giữa điện áp, chiều và điện trở trong mạch điện. Sau khi ông qua đời, đơn vị của điện trở đã được đặt theo tên của ông, “Ohm - Ôm”. Ông còn là tác giả của “Định luật Ôm” nổi tiếng, được ông công bố vào cái thời mà dụng cu đo lường còn rất thô sơ, chưa có ampère kế, volt kế - năm 1827. Định luật phát biểu rằng “Cường độ dòng điện trong một đoạn mạch tỷ lệ thuận với điện áp ở hai đầu đoạn mạch và tỷ lệ nghịch với điện trở của đoạn mạch đó”. Trong sách vật lý cấp 2, chúng mình đã được học qua về định luật Ohm rồi đấy!
Michael Faraday (1791-1867)
Nơi sinh: Newington Butts, Anh
Farraday là một nhà vật lý và hóa học người Anh, nghiên cứu về điện và từ tính. Ông là người đã phát minh ra động cơ điện và máy phát điện, là hai sáng chế nền tảng cho công nghệ thế kỷ XX. Năm 1821, ông đã sử dụng một nam châm và một sợi dây mang điện để tạo ra sự chuyển động cơ học, từ đó tạo nên động cơ điện. Từ đó khám phá ra “Định luật cảm ứng Faraday”, được xem là thành tựu quan trọng nhất của ông. Mười năm sau, bằng cách sử dụng từ trường và chuyển động cơ học, Faraday đã phát minh ra máy phát điện.
Faraday đã xây dựng nên định luật cơ bản của điện phân trong những ngày đầu nghiên cứu hóa học. Ông là người đã giới thiệu một số thuật ngữ hóa học như Ion, cứ dương, cực âm và các điện cực. Năm 1925, ông phát hiện ra Benzen, một chất hữu cơ quan trọng. Năm 1845, ông đưa ra Hiệu ứng Fraday, một hiện tượng mô phỏng sự ảnh hưởng của từ tính đối với sóng ánh sáng trong ánh sáng phân cực. Cụ thể là, nếu ánh sáng phân cực đi qua một từ trường thì độ phân cực của nó sẽ thay đổi. Đây là định hướng đầu tiên nói lên mối liên hệ giữ ánh sáng và điện từ. Tên của ông được đặt tên cho đơn vị điện dung - Farad.
Christian Doppler (1803-1853)
Nơi sinh: Salzburg, Austria
Nhà toán học và vật lý người Áo, Christian Andreas, được biết đến với nghiên cứu quan trọng của côn về tần số âm thanh và bước sóng. Ông đã mô tả lại sự thay đổi rõ ràng của âm thanh khi một quan sát viên đến gần nguồn âm thanh: tần số sóng tăng, âm thanh trở nên chói hơn và khi đi xa sẽ tạo âm trầm hơn. Năm 1842 ông đã diễn tả hiện tượng đó bằng Toán, và đó là hiệu ứng Doppler.
Hiệu ứng này ta có thể bắt gặp ngay trong đời sống hàng ngày. Chẳng hạn như, tiếng còi xe cấp cứu sẽ chói hơn khi nó tiến đến gần ta, giảm dần (tức là trầm hơn) khi xe vượt qua và nhỏ đi khi xe chạy xa. Một ứng dụng quan trọng từ hiệu ứng này đó là việc chế tạo ra “súng bắn tốc độ”. Sử dụng cơ chế radar và hiệu ứng Doppler, phát ra một bước sóng radio có tần số xác định rồi thu nhận tần số sóng radio phản xạ ngược trở lại từ phương tiện giao thông đang di chuyển, từ đó tính ra được vận tốc của phương tiện giao thông.
James Prescott Joule (1818-1889)
Nơi sinh: Salford, Anh
James Prescott Joule, nhà vật lý người Anh, đã chứng minh được nhiệt là một dạng năng lượng. Ông cũng là người đầu tiên thực hiện những phép đo chính xác năng lượng cơ học cần thiết để sản xuất ra nhiệt lượng. Các giá trị đo được này được gọi là tương đương cơ học của nhiệt, là nền tảng cho việc xây dựng nguyên tắc bảo toàn năng lượng. Định luật bảo toàn năng lượng, cũng là định luật I nhiệt động lực học (một trong bốn định luật của nhiệt động lực học), phát biểu rằng năng lượng không thể tự nhiên sinh ra hoặc mất đi. Đơn vị công Joule (Jun - J) đã được đặt theo tên của ông như để ghi nhớ công lao to lớn của ông đối với ngành vật lý học
Lord Kelvin (hay William Thomson) (1824-1907)
Nơi sinh: Belfast, Vương quốc Anh.
Ở thời của William Thomson Kelvin, ông được xem là nhà khoa học lỗi lạc nhất. Năm 1892, ông được nhận danh hiệu Nam tước Kelvin, sau khi được Nữ hoàng Victoria phong tước hiệp sĩ. Tên Kelvin của ông cũng được đặt cho thang nhiệt độ tuyệt đối.
Không giống như nhiệt giai Celsius, giai nhiệt Kelvin bắt đầu ở độ không tuyệt đối. Mỗi độ K trong nhiệt giai Kenvin (1K) bằng một độ trong nhiệt giai Celsius (1°C) và 0°C ứng với 273,15K. Ngoài ra, Kelvin đã có nhiều đóng góp thiết thực trong các lĩnh vực điện báo, điện và hàng hải. Năm 1867, ông được cấp bằng sáng chế một cặp thiết bị cải thiện việc tiếp nhận các tín hiệu điện tín đường dài.
Ernst Mach (1838-1916)
Nơi sinh: Brno, Áo.
Đây là nhà vật lý học, nhà triết học người Áo, người đã tiến hành những nghiên cứu vô cùng quan trọng về sự di chuyển động ở tốc độ siêu âm. Để vinh danh ông, người ta đã gọi số Mach là tỷ lệ giữa tốc độ của một vật thể bay và tốc độ âm thanh trong không khí xung quanh. (Một vật thể ở tốc độ Mach 1 tức là nó đang chuyển động với vận tốc của âm thanh, Mach 2 là vận tốc gấp đôi vận tốc âm thanh… Vận tốc này giảm khi nhiệt độ không khí giảm)
James Dewar (1842-1923)
Nơi sinh: Kincardine-on-Forth, Scotland
Ông là một nhà hóa học và vật lý học người Scottland, là người đầu tiên đã hóa lỏng và làm đông đặc Hyđro. Cùng với Frederick Abel, Dewar đã phát minh ra chất nổ không khói, một loại thuốc súng không khói vào năm 1889. Vào năm 1898, khi đang nghiên cứu thuộc tính vật lý ở nhiệt độ thấp, Dewar đã hóa lỏng được Hyđro. Một năm sau, ông lại có thể làm đông đặc Hy đro ở nhiệt độ -239,9oC. Ông cũng phát minh ra bình Dewar cách nhiệt, là tiền thân của chai chân không ngày nay.
Heinrich Hertz (1857-1894)
Nơi sinh: Bonn, Đức.
Nhà vật lý người Đức Heinrich Hertz là người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu các hiện tượng điện tử. Ông là người đã phát hiện ra sóng phát thanh và hiệu ứng quang điện. Ông là người đầu tiên chứng minh được sự tồn tại của sóng điện từ, phát minh ra một thiết bị có thể phát và thu sóng vô tuyến VHF hoặc UHF. Vào năm 1930, tên của ông được đặt cho đơn vị của tần số (SI hert – Hz), một phép đo số lần của cùng một hiện tượng lặp lại trên một đơn vị thời gian.
Nikola Tesla (1857-1943)
Nơi sinh: Smiljan, Áo (Công dân Mỹ)
Tesla là một kĩ sư điện và cơ khí, là nhà phát minh đóng góp cho sự ra đời của hệ thống đường dây điện hiện đại. Những phát minh quan trọng trong lĩnh vực động lực học của Tesla phải kể đến là sự phát triển dòng điện xoay chiều, động cơ xoay chiều, và việc khám phá trong vật lý hạt nhân và vật lý lý thuyết. Các phát minh và các công trình lý thuyết của Tesla đã giúp tạo ra cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ II. Cho dù là người lập dị, nhưng ông sở hữu rất nhiều bằng sáng chế đáng trân trọng.
Đơn vị thông lượng từ trường được đặt theo tên của ông – Tesla. Tesla đã thiết kế ra một loại máy phát điện ở hiệu điện thế cao dạng tháp, mà ngày nay người ta gọi đó là tháp Tesla. Ông còn đưa ra “Hiệu ứng Tesla” về sự chuyển giao năng lượng không dây
Pierre Curie (1859-1906)
Nơi sinh: Paris, Pháp
Pierre Curie đã học tập tại trường đại học Sorbonne tại Paris. Năm 1882, ông trở thành giám đốc phóng thí nghiệm tại Trường Vật lý và Hóa học tại Paris. Tại đây, ông đã đưa ra định luật Curie, chỉ ra những ảnh hưởng của việc thay đổi nhiệt độ đối với từ tính. Như đã nói ở trên, ông cùng vợ đã tiên phong nghiên cứu phóng xạ và phát hiện ra nguyên tố phóng xạ radi và poloni. Năm 1903, nhà Curies cùng Antonie Henri Becquerel đã dảnh giải Nobel vật lý cho việc nghiên cứu phóng xạ.
Marie Curie (1867-1934)
Nơi sinh: Warsaw, Ba Lan (Đế quốc Nga)
Marie Curie là một nhà khoa học người Pháp sinh ra ở Ba Lan. Bà cũng người chồng là Pierre Curie (người sẽ được nhắc đến ngay sau đây) là các nhà khoa học tiên phong trong việc nghiên cứu phóng xạ, và đã phát hiện ra nguyên tố phóng xạ radi và poloni. Vào năm 1903, bà cùng với Antoine Henri Becquerel đã nhận giải Nobel vật lý cho việc nghiên cứu phóng xạ. Và vào năm 1911, Marie Curie nhận giải Nobel hóa học vì đã phát hiện ra hai nguyên tố radi và poloni, trở thành người đầu tiên nhận hai giải Nobel.
Sau khi chồng mất, bà Curie đã được bổ nhiệm vào vị trí của chồng bà tại trường đại học danh tiếng Sorbonne của Pháp. Đặc biệt với sự bổ nhiệm này, bà trở thành giảng viên nữ đầu tiên tại Sorbonne. Sau đó, bà trở thành giám độc của phòng thí nghiệm của Viên nghiên cứu Radi của trường Sorbonne. Đáng tiếc là chất radi đã hại bà chết vì bị thiếu máu.
Albert Einstein (1879-1955)
Nơi sinh: Ulm, Đức (Quốc tịch: Hoa Kỳ)
Albert Einstein là nhà vật lý lý thuyết người Mỹ gốc Đức-Do Thái. Ông là nhà khoa học đại tài và có ảnh hưởng nhất của mọi thời đại. Albert Einstein được coi là cha đẻ của vật lý hiện đại, là nhà khoa học vĩ đại nhất thế kỉ XX và là một trí thức lỗi lạc nhất trong lịch sử. Năm 1921, ông nhận giải Nobel vật lý vì “Những đóng góp cho vật lý lý thuyết, và đặc biệt là sự khám phá về hiệu ứng quang điện”.
Hiệu ứng quang điện là một hiện tượng điện - lượng tử, trong đó các điện tử được thoát ra khỏi vật chất sau khi hấp thụ năng lượng từ các bức xạ điện từ. Thành tựu nổi bất nhất của nhà khoa học Mỹ chính là “Thuyết đương đối”. Thuyết này bao gồm thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng, là cơ sở của ngành vũ trụ học. Ông còn đưa ra rất nhiều thuyết quan trong cho ngành vật lý: lý thuyết photon và lưỡng tính hạt sóng, thuyết lượng tử, chuyển động của nguyên tử trong chất rắn…
Hans Geiger (1883-1945)
Nơi sinh: Neustadt-an-der-Haardt, Đức.
Hans Geiger là nhà vật lý người Đức, nổi tiếng với các thành tựu trong vật lý hạt nhân. Ông đã phát triển bộ đếm Geiger (con được gọi là bộ đếm Geiger-Muller), là một công cụ để phát hiện ra tia gamma, hạt alpha và beta, hoặc các dạng khác của bức xạ ion hóa.
Những nhà thám hiểm sử dụng bộ đếm Geiger để tìm ra uranium, thori, và các nguyên tố phóng xạ khác. Những công cụ đó cũng được sử dụng trong khoa học và công nghiệp, chú yêu liên quan đến các đồng vị phóng xạ.
Niels Bohr (1885-1962)
Nơi sinh: Copenhagen, Đan Mạch
Bohr là nhà vật lý học người Đan Mạch, người đã nhận giải Nobel vật lý năm 1922 vì những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu cấu trúc của nguyên tử và trong cơ học lượng tử. Đặc biệt là thuyết được ông đưa ra vào năm 1913, khẳng định các điện tử xung quanh hạt nhân nguyên tử chuyển động theo quỹ đạo cố định, và chỉ chuyển sang một quỹ đạo khác khi nó hấp thụ hoặc bức xạ năng lượng. Albert Einstein (nhà khoa học sẽ được nhắc tới sau đây) đã ca ngợi Bohr như là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của mọi thời đại.
Erwin Schrödinger (1887-1961)
Nơi sinh: Erdberg de Vienna, Áo
Erwin Rudolf Josef Alexander Schrödingerlà một nhà vật lý người Áo. Ông nổi tiếng với những đóng góp trong cơ học lượng tử, là người phát minh ra cơ học sóng (một hình thức của cơ học lượng tử). Năm 1933 ông đã được nhận giải Nobel nhờ phát minh ra phương trình Schrödinger vào năm 1926. Đây là một phương trình cơ bản của vật lý lượng tử mô tả sự biến đổi trạng thái lượng tử của một hệ vật lý theo thời gian, thay thế cho các định luật Newton và biến đổi Galileo trong cơ học cổ điển.
Charles Francis Richter (1900-1985)
Nơi sinh: Hamilton, Ohio, Hoa Kỳ.
Charles Richter là một nhà vật lý, nhà địa chấn học người Mỹ, nổi tiếng với thành tựu “Thang độ Richter”, giúp xác định được mức độ động đất. Ông và công sự của mình làm việc tại Viện Công nghệ California (thuộc California, Mỹ), tên là Beno Gutenberg, đã cùng nghiên cứu về động đát. Năm 1935 “Độ Richter” được công bố, và ngay lập tức trở thành thước đo tiêu chuẩn cường độ động đất cho đến ngày nay.
Enrico Fermi (1901-1954)
Nơi sinh: Rome, Italy (công dân Mỹ)
Nhà vật lý học người Mỹ Enrico Fermi là người có nhiều đóng góp cho vật lý hạt nhân. Ông là người đầu tiên đã phân chia được các nguyên tử, mặc dù tại thời điểm đó bản thân ông cũng không nhận ra được điều này. Ông được biến đến với công trình phát triển lò phản ứng hạt nhân đầu tiên, và phát triển lý thuyết lượng tử. Sự kiện này đã dẫn đến việc thử nghiệm thành công vũ khí nguyên tử đầu tiên. Fermi đoạt giải thưởng Nobel vật lý năm 1938 với những thành tựu liên quan đến phóng xạ. Tên của ông đã được đặt cho một nguyên tố tổng hợp – Fermium (có số nguyên tử là 100), phòng Thí nghiệm Quốc gia Fermi và kính viễn vọng tia Gamma Fermi.
J. Robert Oppenheimer (1904-1967)
Nơi sinh: New York, Hoa Kỳ.
Oppenheimer là nhà vật lý người Mỹ, người chỉ đạo các phòng thí nghiệm tại Los Alamos, New Mexico. Đây là nơi quả bom nguyên tử đầu tiên được thiết kế và xây dựng. Oppenheimer được biết đến như là cha đẻ của bom nguyên tử. Ông nổi tiếng với câu nói trích dẫn lời của Bhagavad Gita (“Bài hát của Đấng Tối Cao” bằng tiếng Phạn) trong các thử nghiệm Trinity (thử nhiệm vũ khí nguyên tử đầu tiên) tại New Mexico: “Bây giờ, tôi trở thành Thần chết, là kẻ hủy diệt của thế giới”
Benoit Mandelbrot (1924 )
Nơi sinh: Copenhagen, Đan Mạch.
Mandelbrot là nhà vật lý và nhà toán học người Đan Mạch, là người được mệnh danh là "Cha đẻ của hình học fractan". Fractal là một thuật ngữ Mandelbrot đưa ra vào năm 1975, sau quá trình ông nghiên cứu những hiện tượng trong thiên nhiên không có đặc trưng về độ dài.
Ông cho rằng rằng: “Các đám mây không phải là hình cầu, các ngọn núi không phải là hình nón”. Ông gọi những đối tượng hình học có hình dáng ghồ ghề, không trơn nhẵn, và có tính đối xứng trong thiên nhiên là Fractal. Mandelbrot cho rằng khi ta chia một vật thể fractal, với hình dáng ghồ ghề, gãy góc ra thành những phần nhỏ thì nó vẫn có được đặc tính đối xứng trong một cấu trúc tưởng như hỗn đoạn. Hình dáng các đám mây, đường đi của các tia chớp là những ví dụ mà ta dễ nhìn thấy được.
Mandelbrot dành hầu hết sự nghiệp của mình ở Trung tâm Nghiên cứu Thomas J. Watson của IBM, và là một thành viên của IBM Fellow. Ông sau đó là Giáo sư Sterling về Khoa học Toán học ở đại học Yale. Mandelbrot cũng làm việc tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Đông bắc Thái Bình Dương, và Université Lille Nord de France, Viện nghiên cứu cấp cao Princeton và Centre National de la Recherche Scientifique.
Aage Bohr (1922-2009)
Nơi sinh: Copenhagen, Đan Mạch
Aage là một nhà vật lý lỗi lạc người Đan Mạch, là con thứ tư của nhà vật lý nổi tiếng Niels Bohr (người sẽ được nhắc đến ngay sau đây) và bà Margrethe Bohr. Nơi ông sinh ra, Copenhagen, cũng là nơi nuôi dưỡng rất nhiều các nhà vật lý nổi tiếng như Wolfgang Pauli và Werner Heisenberg. Có lẽ chính vì vậy ông càng có nhiều cơ hội để phát triển trí tuệ của mình.
Ông đã đạt giải Nobel vật lý cho “Phát hiện liên kết giữa các chuyển động tập thể và chuyển động hạt trong hạt nhân nguyên tử, cũng như phát triển các lý thuyết về cấu trục hạt nhân nguyên tử dựa trên những liên kết này”.
(Theo PLTP)
0 Comments